Khoa cấp cứu là gì? Các công bố khoa học về Khoa cấp cứu

Khoa cấp cứu là một phòng trong các bệnh viện, được thiết lập để cung cấp chăm sóc y tế tức thì cho những trường hợp khẩn cấp như tai nạn, thương tích nghiêm tr...

Khoa cấp cứu là một phòng trong các bệnh viện, được thiết lập để cung cấp chăm sóc y tế tức thì cho những trường hợp khẩn cấp như tai nạn, thương tích nghiêm trọng, cơn đau tim, ngưng tim, sốt rét, phản ứng dị ứng nặng, hôn mê, nạn nhân bị ngộ độc, suy tim... Trong khoa cấp cứu, các bác sĩ và y tá được đào tạo để đối phó với các trường hợp khẩn cấp và đưa ra các quyết định nhanh chóng để cứu sống và bảo vệ sức khỏe của bệnh nhân.
Khoa cấp cứu là một bộ phận y tế quan trọng trong bệnh viện, đảm nhận vai trò phục vụ người bệnh đến bất cứ lúc nào trong ngày và đêm với các tình trạng khẩn cấp và nguy hiểm đến tính mạng. Nhiệm vụ chính của khoa cấp cứu là cung cấp chăm sóc y tế ngay lập tức để giảm thiểu tử vong và biến chứng khỏi những tình trạng khẩn cấp.

Trong khoa cấp cứu, có một đội ngũ y tế chuyên trách gồm bác sĩ cấp cứu, y tá cấp cứu và các nhân viên y tế khác như nhân viên xét nghiệm, điện cơ và hình ảnh y học. Đội ngũ này hoạt động liên tục và lựa chọn các biện pháp chẩn đoán nhanh, xử trí và quản lý tình trạng khẩn cấp dựa trên triệu chứng và dấu hiệu của bệnh nhân.

Các bệnh và tình trạng khẩn cấp có thể được xử lý trong khoa cấp cứu bao gồm nhưng không giới hạn: cấp cứu tâm lý, cứu sống ngưng tim, nạn nhân tai nạn giao thông, bệnh nhân bị cảm cúm nặng, phản ứng dị ứng cấp tính, viêm phổi cộng đồng, cơn đau tim, chấn thương nghiêm trọng, tắc nghẽn đường hô hấp, suy tim, ngộ độc, sốt rét, đau bụng cấp... Trong một số trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân cần được chuyển tới bệnh viện cấp cứu lớn hơn hoặc khoa chuyên khoa để tiếp tục điều trị.

Khoa cấp cứu cũng đảm bảo việc cung cấp các biện pháp cấp cứu sơ bộ như cung cấp oxi, hồi sức vật lý, xử lý vết thương, truyền dịch, cung cấp thuốc khẩn cấp và đánh giá ban đầu cho từng bệnh nhân. Ngoài ra, khoa cấp cứu còn tham gia công tác giáo dục để nâng cao nhận thức cộng đồng về hành vi an toàn và phòng ngừa tình trạng khẩn cấp y tế.

Khoa cấp cứu là một yếu tố quan trọng của hệ thống y tế, đảm bảo rằng những người bị chấn thương hoặc bệnh tình nguy hiểm có thể nhận được chăm sóc y tế ngay lập tức để tăng cơ hội sống sót và phục hồi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "khoa cấp cứu":

Tư vấn Thay đổi Hành vi tại Khoa Cấp cứu để Giảm Rủi ro Chấn thương: Một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 110 Số 2 - Trang 267-274 - 2002

Mục tiêu. Xác định xem một phiên tư vấn thay đổi hành vi ngắn (BCC), được cung cấp cho thanh niên bị chấn thương tại khoa cấp cứu (ED) như một can thiệp điều trị, có thể được sử dụng để thay đổi các hành vi liên quan đến rủi ro chấn thương và nguy cơ tái chấn thương hay không.

Thiết kế Nghiên cứu. Một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng.

Tham gia. Thanh thiếu niên từ 12 đến 20 tuổi đang điều trị chấn thương tại ED và có khả năng tham gia can thiệp một cách nhận thức.

Địa điểm. Một khoa cấp cứu đô thị tại trung tâm chấn thương nhi cấp độ 1.

Can thiệp. Các tham gia nghiên cứu hoàn thành đánh giá tỷ lệ hành vi rủi ro cơ bản. Các tham gia sau đó được phân ngẫu nhiên để nhận BCC hoặc chăm sóc thông thường tại ED. Những người trong nhóm điều trị đã trải qua một phiên BCC ngắn với một công tác viên xã hội nghiên cứu tập trung vào việc thay đổi một hành vi rủi ro liên quan đến chấn thương đã được xác định (sử dụng dây an toàn, sử dụng mũ bảo hiểm xe đạp, lái xe sau khi uống rượu, đi cùng với người lái xe bị suy giảm khả năng, uống rượu nhiều, hoặc mang theo vũ khí). Các tham gia được liên lạc lại sau 3 tháng và 6 tháng từ khi nhập học để đánh giá tỷ lệ thay đổi hành vi tích cực và sự xuất hiện các chấn thương được điều trị y tế trong thời gian này.

Kết quả. Chúng tôi đã đăng ký 631 tham gia (78% số người đủ điều kiện) và thu được dữ liệu theo dõi cho 76% vào tháng thứ 3 và 75% vào tháng thứ 6. Nguy cơ tương đối của việc thay đổi hành vi tích cực liên quan đến việc sử dụng dây an toàn là 1.34 (Khoảng tin cậy [CI] 95%: 1.00, 1.79) vào tháng thứ 3, ủng hộ nhóm can thiệp. Nguy cơ tương đối cho cùng một kết quả là 1.47 (CI 95%: 1.09, 1.96) vào tháng thứ 6. Thay đổi tích cực trong việc sử dụng mũ bảo hiểm xe đạp là 1.81 (CI 95%: 1.02, 3.18) lần có khả năng hơn vào tháng thứ 3 và 2.00 (CI 95%: 1.00, 4.00) lần có khả năng hơn vào tháng thứ 6 trong nhóm can thiệp. Không có tác động của can thiệp đối với những thay đổi trong các hành vi mục tiêu khác. Trong suốt thời gian theo dõi 6 tháng, nguy cơ tái chấn thương cần chăm sóc y tế không khác biệt giữa các nhóm điều trị.

Kết luận. BCC ngắn có thể được cung cấp cho thanh thiếu niên đang điều trị chấn thương tại ED và có thể được sử dụng để giải quyết các hành vi rủi ro liên quan đến chấn thương. Can thiệp này liên quan đến khả năng cao hơn về thay đổi hành vi tích cực trong việc sử dụng dây an toàn và mũ bảo hiểm xe đạp. Hiệu ứng này kéo dài trong suốt 6 tháng theo dõi. BCC không liên quan đến những thay đổi trong các hành vi rủi ro khác và không thể chứng minh là giảm đáng kể nguy cơ tái chấn thương.

Di chứng thần kinh tâm lý muộn sau ngộ độc carbon monoxide: các yếu tố nguy cơ dự đoán tại Khoa Cấp cứu. Một nghiên cứu hồi cứu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 19 Số 1 - 2011
Tóm tắt Nền tảng

Các di chứng thần kinh tâm lý muộn (DNS) thường xảy ra sau khi hồi phục từ ngộ độc carbon monoxide (CO) cấp tính. Vai trò phòng ngừa và các chỉ định trong liệu pháp oxy cao áp ở giai đoạn cấp tính vẫn còn gây tranh cãi. Việc xác định sớm những bệnh nhân có nguy cơ tại Khoa Cấp cứu có thể cho phép cải thiện chất lượng chăm sóc. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu để xác định các yếu tố nguy cơ dự đoán cho sự phát triển của DNS tại Khoa Cấp cứu.

Phương pháp

Chúng tôi đã hồi cứu tất cả các bệnh nhân bị ngộ độc CO được nhập viện tại Khoa Cấp cứu của Bệnh viện Đại học Careggi (Florence, Ý) từ năm 1992 đến 2007. Bệnh nhân được mời tham gia ba lần theo dõi sau khi xuất viện vào một tháng, six tháng và mười hai tháng. Dữ liệu lâm sàng và sinh học được thu thập; phân tích đơn biến và đa biến được thực hiện để xác định các yếu tố nguy cơ dự đoán cho DNS.

Kết quả

Bốn trăm bốn mươi bảy bệnh nhân đã được nhập viện tại Khoa Cấp cứu do ngộ độc CO cấp tính từ năm 1992 đến 2007; 141/347 bệnh nhân đã tham gia vào lần theo dõi sau một tháng từ khi xuất viện. Ba mươi bốn/141 bệnh nhân được chẩn đoán có DNS (24.1%). Năm/34 bệnh nhân trước đó được chẩn đoán có DNS đã tham gia lần theo dõi sau sáu tháng, báo cáo đã hồi phục hoàn toàn. Các biến sau (thu thập trước hoặc tại thời điểm nhập viện Khoa Cấp cứu) có liên quan đến sự phát triển của DNS sau một tháng từ khi xuất viện trong phân tích đơn biến: thời gian tiếp xúc với CO >6 giờ, điểm Glasgow Coma Scale (GCS) <9, cơn động kinh, huyết áp động mạch tâm thu <90 mmHg, nồng độ creatine phosphokinase tăng cao và bạch cầu cao. Không có mối tương quan đáng kể nào với tuổi, giới tính, tiếp xúc tự nguyện, đau đầu, mất ý thức tạm thời, GCS giữa 14 và 9, nồng độ lactate động mạch và carboxyhemoglobin. Phân tích đa biến xác nhận các yếu tố tiên đoán độc lập GCS <9 (OR 7.15; CI 95%: 1.04-48.8) và bạch cầu cao (OR 3.31; CI 95%: 1.02-10.71).

Kết luận

Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định một số yếu tố nguy cơ dự đoán tiềm năng cho DNS. Các thuật toán điều trị dựa trên phân loại nguy cơ thích hợp của bệnh nhân tại Khoa Cấp cứu có thể làm giảm tỷ lệ mắc DNS; tuy nhiên, cần có thêm nhiều nghiên cứu. Theo dõi đầy đủ sau khi xuất viện, nhằm mục đích nhận diện đúng DNS, cũng rất quan trọng.

Cơ cấu bệnh tật tại khoa cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2019
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả mô hình bệnh tật và phân bố thời gian của bệnh nhân được khám và điều trị tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2019. Trong số 22.385 bệnh nhân được cấp cứu năm 2019 có 50,98% là nữ, 56,4% ở nhóm tuổi lao động (từ 18 đến 50 tuổi). Ba nhóm bệnh thường gặp nhất là tiêu hóa: 34,69%; nhiễm khuẩn: 12,76% và chấn thương: 11,84%. Cơ cấu bệnh tật tại Khoa Cấp cứu cho thấy tỷ lệ bệnh truyền nhiễm còn cao, tiếp đến là bệnh không lây nhiễm và chấn thương. Nghiên cứu cho thấy số lượng bệnh nhân đa dạng quanh năm với số lượng bệnh nhân cao nhất trong quý III, cao hơn nhiều so với quý I năm 2019. Cơ cấu bệnh tật cho thấy tính chất đa dạng của bệnh cấp cứu. Phân bố các nhóm bệnh khá cân bằng, trong đó nhóm bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm và bệnh chấn thương là bệnh phổ biến nhất.
#Mô hình bệnh tật #Cấp cứu #Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Determining facies distribution trend in order to update geological modeling ILBH 5.2 reservoir, lower miocene, Rong Trang Field, Block 16-1 Cuu Long Basin
Dòng dầu khí thương mại được phát hiện tại tập cát kết 5.2U, mỏ Rồng Trắng lô 16-1 trầm tích Miocen hạ bể Cửu Long. Tuy nhiên tầng chứa thường là tập hợp các vỉa mỏng, bất đồng nhất. Trên cơ sở xác định nguồn gốc của vật liệu, điều kiện biến đổi của môi trường, chế độ động lực của quá trình vận chuyển, bối cảnh địa hóa môi trường lắng đọng và tạo đá, công trình làm sáng tỏ quy luật phân bố tướng đá tầng chứa. Việc áp dụng phương thức tiếp cận tổng hợp địa chấn, tài liệu thạch học, mẫu lõi và địa vật lý giếng khoan kết hợp với ứng dụng mô hình địa chất phân giải cao cho phép chính xác hoá quy luật phân bố tướng đá của tập ILBH 5.2. Kết quả nghiên cứu tập đã phân loại thành công tướng đá chủ yếu ứng với môi trường thành tạo: Môi trường sông gồm tướng tướng trầm tích lòng sông, trầm tích vỡ đê và trầm tích ven sông phân bố theo phương từ Tây – Đông đến Bắc Tây Bắc – Nam Đông Nam, trong đó vùng Bắc – Tây Bắc đá chứa có chất lượng tốt nhất, theo phương Đông Nam là các tướng trầm tích lòng hồ, trầm tích cát ven bờ và trầm tích cát xa bờ được hình thành trong môi trường hồ và tại ranh giới giữa 2 môi trường đá chứa có chất lượng cao hơn cả. Cơ chế hình thành thành hệ trầm tích chứa dầu khí tuổi Miocen của lô 16-1 nói riêng, khu vực Trung Bộ phức tạp, để có thể dự đoán xu thế phân bố tiềm năng của thành hệ này, cần tiến hành đánh giá vai trò của phức hệ macma trong quá trình thành tạo thành hệ chứa dầu khí tuổi Miocen.
#Từ khoá: Tướng đá #xu thế phân bố #mô hình cập nhật #tích hợp số liệu.
Nghiên cứu một số yếu tố liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương
Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả cắt ngang tiến cứu tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 10 năm 2016 trên bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên, hội chứng dễ bị tổn thương được đánh giá theo tiêu chí Fried. Kết quả: Tổng số có 389 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 79,1 ± 8,9 năm. Tỷ lệ bệnh nhân có hội chứng dễ bị tổn thương là 68,4%. Hoạt động chức năng hàng ngày, hoạt động chức năng hàng ngày có dụng cụ và chỉ số bệnh đồng mắc Charlson có liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương (p<0,05). Kết luận: Hoạt động chức năng hàng ngày, hoạt động chức năng hàng ngày với dụng cụ và tình trạng đa bệnh lý có liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương. Từ khóa: Hội chứng dễ bị tổn thương, yếu tố liên quan, người cao tuổi, Khoa Cấp cứu.
#Hội chứng dễ bị tổn thương #yếu tố liên quan #người cao tuổi #Khoa Cấp cứu
Khảo sát tình trạng trầm cảm, lo âu, stress ở điều dưỡng viên Khoa Cấp cứu, các khoa hồi sức tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, năm 2021
Mục tiêu: Đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, stress và các yếu tố liên quan ở điều dưỡng Khoa Cấp cứu và các Khoa Hồi sức - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 111 điều dưỡng hiện đang công tác tại Khoa Cấp cứu và Khoa Hồi sức tích cực - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có biểu hiện trầm cảm, lo âu, stress lần lượt là: 32,4%, 35,1%, 63,1%. Giới tính nữ, có biến cố trong 1 năm vừa qua, là người mang lại thu nhập chính cho gia đình, vị trí làm việc, môi trường làm việc chưa phù hợp, quan hệ trong công việc chưa phù hợp, thiếu động viên khuyến khích có mối liên quan ý nghĩa thống kê với tình trạng trầm cảm, lo âu và stress. Kết luận: Đặc điểm gia đình và môi trường làm việc có ảnh hưởng đến tình trạng trầm cảm, lo âu và stress của điều dưỡng cấp cứu, hồi sức.
#Trầm cảm #lo âu #stress #điều dưỡng #Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
NHẬN XÉT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO CẤP HỆ THỐNG TUẦN HOÀN SAU TẠI KHOA CẤP CỨU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Điều trị bệnh nhân nhồi máu não do tắc hệ thống tuần hoàn sau vẫn còn nhiều thách thức. Dù đã phát triển kỹ thuật lấy huyết khối và mở rộng cửa sổ điều trị, tuy nhiên tỉ lệ tử vong và tàn phế vẫn còn khá cao. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tổng kết 113 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não cấp hệ tuần hoàn sau vào trung tâm Cấp cứu A9 Bệnh viện Bạch Mai nhằm đánh giá các phương pháp điều trị, thời gian nằm viện và kết cục sau 3 tháng của nhóm bệnh nhân này. Kết quả: Điều trị nội khoa đơn thuần chiếm phần lớn với 105 bệnh nhân, tỷ lệ 92,9%. Tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch áp dụng cho 4 bệnh nhân, chiếm 3,5%; Có 3 bệnh nhân được lấy huyết khối cơ học đường động mạch chiếm 2,7%. Một trường hợp được kết hợp tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch với lấy huyết khối cơ học đường động mạch chiếm 0,9%. Số ngày nằm viện từ 7 đến dưới 14 ngày chiếm nhiều nhất với 50,4%. Thời gian nằm viện trung bình là 12,8 ± 6,896 ngày, thấp nhất 2 ngày và cao nhất 35 ngày. Tỉ lệ tử vong 11,5%. Tỷ lệ tàn tật nặng theo điểm Rankin sửa đổi (4, 5 điểm) chiếm 22,1%. Tỷ lệ bệnh nhân khuyết tật nhẹ (mRS 0, 1, 2, 3 điểm) chiếm 66,3%. Kết luận: Nhồi máu não cấp hệ tuần hoàn sau có tỉ lệ tử vong và tàn tật còn cao. Việc chẩn đoán phát hiện sớm, phối hợp nhiều biện pháp điều trị sẽ mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
#Nhồi máu não tuần hoàn sau #tai biến mạch não (TBMN) #tuần hoàn sau #mRS
ĐIỀU TRỊ SỐC NHIỄM KHUẨN Ở TRẺ EM TẠI KHOA CẤP CỨU HỒI SỨC BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 37 - Trang 33-43 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá điều trị sốc nhiễm khuẩn ở trẻ em tại khoa Cấp cứu hồi sức bệnh viện nhi đồng Thành phố từ 01/01/2018 – 30/04/2019. Phương pháp : Mô tả loạt trường hợp Kết quả: 116 trẻ sốc nhiễm khuẩn được chẩn đoán dựa trên lâm sàng và xét nghiệm, được đưa vào lô nghiên cứu, tuổi trung bình 23,4 tháng, nhỏ nhất 5 tháng, nam chiếm tỉ lệ 51,7% nữ 48,3%. Kết quả điều trị theo mục tiêu sớm sau 6 giờ hồi sức sốc với huyết động tạm ổn định 72,4%, đạt nước tiểu ≥ 1ml/kg/giờ 60,3%, đạt trị số CVP theo mục tiêu 64,6%, đạt ScvO2 ≥ 70%: 68,3%. Mục tiêu đạt lactate máu ≤ 2mmol/L đạt 62,1%, độ thanh thải lactate máu ≥ 10% giờ thừ 2 và 6:  68,1% và 80,2%.  Kết quả điều trị tỉ lệ tử vong 20,7%. Kết luận: Điều trị sốc nhiễm khuẩn ở trẻ em theo mục tiêu sớm giúp cải thiện tỉ lệ tử vong. Các biện pháp  cải thiện tỉ lệ đạt mục tiêu sớm bao gồm cụ thể hóa phác đồ rõ ràng, tập huấn phác đồ, tăng cường huấn luyện thành thạo kỹ năng thao tác kỹ thuật nâng cao như đo CVP, HAĐMXL đi đôi với trang bị các phương tiện hồi sức hiện đại và đặc biệt là giám sát chặt chẽ việc tuân thủ phác đồ điều trị để điều chỉnh kịp thời nhằm cứu sống nhiều hơn nữa bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.
#Sốc nhiễm khuẩn #liệu pháp đạt mục tiêu sớm
28. Thực trạng chuyển tuyến của người bệnh khoa cấp cứu, hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, năm 2020
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực trạng chuyển tuyến tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm 2020. Nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu từ Phần mềm quản lý bệnh viện tại Khoa Cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm 2020. Tổng số 3518 người bệnh nhập viện vào Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa đã chuyển tuyến trong năm 2020 được trích suất. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chương bệnh XIX: Chấn thương thương, ngộ độc và hậu quả của một số nguyên nhân từ bên ngoài có tỷ lệ chuyển cao nhất (n = 1388, 39,5%). Đa số người bệnh chuyển từ tuyến dưới lên tuyến trên (n = 2258, chiếm tỷ lệ 64,2%). Số người bệnh chuyển viện trái tuyến chỉ là 89 người (2,5%).
#Mô hình bệnh tật #chuyển tuyến #ICD-10 #bệnh viện tỉnh Thanh Hóa #ICU #hồi sức tích cực
MÔ HÌNH BỆNH TẬT TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC PHÚ QUỐC NĂM 2019
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả mô hình bệnh tật tại khoa HSCC bệnh viện ĐKQT Vinmec Phú Quốc từ 1.2019-12.2019. Phương pháp : Nghiên cứu  mô tả ca bệnh hồi cứu.   Kết quả: Lượng BN có xu hướng tăng cao vào giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 3 sang năm. Tỷ lệ nam/ nữ: 52,3% so với 47,7%. BN trẻ em chiếm 30,2%. Người lớn 69,8%). BN là khách du lịch: 62.45% trong đó số BN người nước ngoài chiếm 38.5%. Nhóm bệnh lý chính: Rối loạn tiêu hóa (62,2%); Chấn thương các loại (20,02%); Sốt virus (11,75%) và bệnh lý hô hấp (8,34%). Số BN nặng cần HSCC chiếm 10.5%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mô hình bệnh tật BN vào cấp cứu tại BVĐK QT VMPQ: (i). Khách du lịch trong và ngoài nước; (ii). Thói quen, tập quán sinh hoạt đi lại của dân địa phương và của khách du lịch; (iii). Môi trường tại PQ với đặc thù là khí hậu biển, chia hai mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Kết luận: Hệ thống y tế trên Đảo cần chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cấp cứu, thuốc men phù hợp với mô hình bệnh tật tại địa phương. Xây dựng mô hình hệ thống cấp cứu tiền viện - HSTC tại chỗ - Vận chuyển BN về đất liền an toàn.
#Mô hình bệnh tật #khoa Hồi sức cấp cứu #Bệnh viện ĐKQT Vinmec #Phú Quốc
Tổng số: 92   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10